Câu chuyện "Hans nhìn không khí"
Mỗi khi Hans đi đến trường
cậu luôn đưa mắt nhìn lên...
nóc nhà, mây, chim én
nhìn khắp mọi thứ ở trên trời
nhưng ngay trước chân của chính mình,
cậu bé không nhìn gì cả.
Vì vậy mọi người đều gọi:
"Hãy nhìn xem, Hans nhìn không khí !"
Một con chó chạy tới
Hans bé nhỏ nhìn kiên định...
vào không khí
Nếu không ai gọi:
"Hans hãy cẩn thận, con chó đến gần kìa!"
thì điều gì sẽ xảy ra?
Rầm! cả hai nằm đó!
Con chó và Hans bé nhỏ ngay kế bên.
Có một lần cậu bé đi đến bờ sông
với cặp táp kẹp bên hong.
Mắt nhìn bầu trời xanh,
cậu nhìn thấy chim én bay,
đi một đường thẳng bon
dần dần đến mép bờ sông...
Mấy con cá nhỏ xếp hàng dưới nước
Cả ba con đều rất ngạc nhiên.
Cậu đâm đầu té xuống!
Ba con cá giựt mình,
lẫn trốn.
Nhưng cũng may có hai người
đàn ông gần đó đi trờ tới
Họ dùng cây que
vớt cậu ra khỏi nước.
Nhìn kìa! Bây giờ cậu ta đứng đó, ướt nhẹp!
Ay da! đây là trò đùa thật tệ!
Nước chảy xuống từ cậu bé bất hạnh
Từ tóc chảy xuống mặt,
Từ quần áo, từ tay;
Và cậu ấy lạnh run thấy mà thương hại.
Tuy nhiên ba con cá nhỏ,
bơi nhanh nhẹn đến;
ló đầu lên khỏi mặt nước,
cười to đến bạn nghe được,
Tiếp tục cười trong một thời gian dài;
Và cái cặp từ từ trôi xa.
The Story of Hans Stare-in-the-Air
As he trudg'd along to school,
It was always Hans's rule
To be looking at the sky,
And the clouds that floated by;
But what just before him lay,
In his way,
Hans never thought about;
So that every one cried out -
"Look at little Hans there,
Little Hans Stare-in-the-Air!"
Running just in Hans's way,
Came a little dog one day;
Hans's eyes were still astray
Up on high,
In the sky;
And he never heard them cry -
"Hans, mind, the dog is nigh!"
Bump!
Dump!
Down they fell with such a thump,
Dog and Hans in a lump!
Once, with head as high as ever,
Hans walk'd beside the river.
Hans watch'd the swallows trying
Which was cleverest at flying.
Oh! what fun!
Hans watch'd the bright round sun
Going in and coming out;
This was all he thought about.
So he strode on, only think!
To the river's very brink,
Where the bank was high and steep,
And the water very deep;
And the fishes, in a row,
Stared to see him coming so.
One step more! Oh! sad to tell!
Headlong in poor Hans fell,
And the fishes, in dismay,
Wagg'd their tails and ran away.
There lay Hans on his face,
With his nice red writing-case;
But, as they were passing by,
Two strong men had heard him cry;
And, with sticks, these two strong men
Hook'd poor Hans out again.
Oh! you should have seen him shiver
When they pull'd him from the river
He was in a sorry plight!
Dripping wet, and such a fright!
Wet all over, everywhere,
Clothes, and arms, and face, and hair!
Hans never will forget
What it is to be so wet.
And the fishes, one, two, three,
Are come back again, you see;
Up they came the moment after,
To enjoy the fun and laughter.
Each popp'd out his little head
And, to tease poor Hans, said:
"Silly little Hans, look
You have lost your writing-book!"
Heinrich Hoffmann 1844
Original title:
Die Geschichte vom Hans Guck-in-die-Luft
Wenn der Hans zur Schule ging,
Stets sein Blick am Himmel hing.
Nach den Dächern, Wolken, Schwalben
Schaut er aufwärts allenthalben:
Vor die eignen Füße dicht,
Ja, da sah der Bursche nicht,
Also daß ein jeder ruft:
"Seht den Hans Guck-in-die-Luft!"
Kam ein Hund daher gerannt;
Hänslein blickte unverwandt
In die Luft
Niemand ruft:
"Hans gib acht, der Hund ist nah!"
Was geschah?
Bauz! Perdauz! - da liegen zwei!
Hund und Hänschen nebenbei
Einst ging er an Ufer Rand
Mit der Mappe in der Hand.
Nach dem blauen Himmel hoch
Sah er, wo die Schwalbe flog,
Also daß er kerzengrad
Immer mehr zum Flusse trat.
Und die Fischlein in der Reih'
Sind erstaunt sehr, alle drei.
Noch ein Schritt! und plumps!
Stürzt hinab kopfüber ganz!
Die drei Fischlein, sehr erschreckt,
Haben sich sogleich versteckt.
Doch zum Glück da kommen zwei
Männer aus der Näh' herbei,
Und die haben ihn mit Stangen
Aus dem Wasser gefangen.
Seht! Nun steht er triefend naß!
Ei! Das ist ein schlechter Spaß!
Wasser läuft dem armen Wicht
Aus den Haaren ins Gesicht,
Aus den Kleidern, von den Armen;
Und es friert ihn zum Erbarmen.
Doch die Fischlein alle drei,
Schwimmen hurtig gleich herbei;
Strecken 's Köpflein aus der Flut,
Lachen, daß man's hören tut,
Lachen fort noch lange Zeit;
Und die Mappe schwimmt schon weit.
***
Peter Tóc Rối Nhùi
Nhìn xem, cậu ta đứng đó kìa.
Í ẹ ! Peter tóc rối nhùi
Cả hai bàn tay của cậu ấy
móng tay không chịu cắt
chúng mọc đã gần một năm rồi;
Tóc không chịu chải gỡ
Í ẹ ! mọi người đều kêu lên:
Peter tóc rối nhùi bẩn thỉu !
Der Struwwelpeter
Sieh einmal, hier steht er.
Pfui ! Der Struwwelpeter
An den Händen beiden,
Ließ er sich nicht schneiden
Seine Nägel fast ein Jahr;
Kämmen ließ er nicht sein Haar.
Pfui ! ruft da ein jeder:
Garst'ger Struwwelpeter!
Just look at him! There he stands,
With his nasty hair and hands.
See! his nails are never cut;
They are grim'd as black as soot;
And the sloven, I declare,
Never once has comb'd his hair;
And thing to me is sweeter
Than to see Shock-headed Peter.
Heinrich Hoffmann 1844
Original title: Der Struwwelpeter
Chuyện được dịch ra nhiều thứ tiếng
Tiếng Pháp tựa: Pierre L'ébouriffé
Tiếng Tây Ban Nha: Pedro el greñoso
Tiếng Nhựt
***
Paulin bé nhỏ tội nghiệp
Paulin bé nhỏ ở nhà một mình
Ba má của em đều đi vắng.
Em tung tăng nhảy nhót trong phòng
Với chút can đảm và ca hát,
Bất ngờ em nhìn thấy trước mặt
hộp quẹt rất ngộ.
"Ay", cô bé nói, "ay, đẹp và tinh tế quá
Đây là đồ chơi tuyệt vời
Mình quẹt một cái
như mẹ vẫn thường làm."
Minz và Maunz hai chú mèo,
đưa bàn chân lên
dọa cô bé rằng:
"Cha cô đã cấm!
Meo meo meo meo!
Để yên đó! không thì cô sẽ cháy rực!"
Paulin bé nhỏ không nghe lời con mèo
Diêm quẹt cháy sáng và buồn cười,
Cháy nhấp nháy và kêu răng rắc...
như trong hình vẽ.
Paulin bé nhỏ rất vui
Cô nhảy tung tăng trong phòng.
Nhưng Minz và Maunz hai chú mèo,
đưa bàn chân lên
dọa cô bé rằng:
"Mẹ cô đã cấm!
Meo meo meo meo!
Quăng nó đi! không thì cô sẽ cháy rực!"
Nhưng khốn khổ thay! ngọn lửa bắt qua trang phục,
Áo choàng cháy; lửa tỏa sáng lên.
Lửa cháy bàn tay, cháy tóc,
Cháy toàn thân cô bé.
Cả hai đều kêu thê thảm:
"Đến đây! đến đây! Ai cứu dùm, nhanh lên?
Kìa trong lửa đỏ là một đứa bé!
Meo meo meo meo!
Bớ người ta! Đứa bé cháy phừng phừng kìa!"
Tất cả mọi thứ bị đốt cháy hoàn toàn,
Đứa bé tội nghiệp;
Chỉ còn lại một đống nhỏ tro tàn
Chỉ còn sót lại đôi giày đẹp và sang.
Minz và Maunz, hai chú mèo nhỏ
Ngồi đó khóc:
"Meo meo meo meo!
Ba Má của cô bé tội nghiệp ở đâu? Ở đâu?"
Và nước mắt của chúng chảy
như dòng suối nhỏ trên bãi cỏ.
The Dreadful Story about Harriet and the Matches
It almost makes me cry to tell
What foolish Harriet befell.
Mamma and Nurse went out one day
And left her alone at play;
Now, on the table close at hand,
A box of matches chanc'd to stand;
And kind Mamma and Nurse had told her
That, if she touch'd them, they should scold her.
But Harriet said: "O, what a pity!
For, when they burn, it is so pretty;
They crackle so, and spit, and flame;
Mamma, too, often does the same.
The pussy-cats heard this,
And they began to hiss,
And stretch their claws
And raise their paws;
"Me-ow," they said "me-ow, me-o,
You'll burn to death, if you do so."
But Harriet would not take advice,
She lit a match, it was so nice!
It crackled so, it burn'd so clear, -
Exactly like the picture here.
She jump'd for joy and ran about
And was too pleas'd to put it out.
The pussy-cats saw this
And said: "Oh, naughty, naughty Miss!"
And stretch'd their claws and raised their paws:
"'Tis very, very wrong, you know,
Me-ow, me-o, me-ow, me-o,
You will be burnt, if you do so."
And see! Oh! what a dreadful thing!
The fire has caught her apron-string;
Her apron burns, her arms, her hair;
She burns all over, everywhere.
Then how they pussy-cats did mew,
What else, poor pussies, could they do?
They scream'd for help, 'twas all in vain!
So then, they said: "We'll scream again;
Make haste, make haste, me-ow, me-o,
She'll burn to death, we told her so."
So she was burnt, with all her clothes,
And arms, and hands, and eyes, and nose;
Till she had nothing more to lose
Except her little scarlet shoes;
And nothing else but these was found
Among her ashes on the ground.
And when the good cats sat beside
The smoking ashes, how they cried!
"Me-ow, me-oo, me-ow, me-oo,
What will Mamma and Nursy do?"
Their tears ran down their cheeks so fast;
They made a little pond at last.
Heinrich Hoffmann 1844
Original title: Paulinchen mit dem Feuerzeug
Das arme Paulinchen
Paulinchen war allein zu Haus,
Die Eltern waren beide aus.
Als sie nun durch das Zimmer sprang
Mit leichtem Mut und Sing und Sang,
Da sah sie plötzlich vor sich stehn
Ein Feuerzeug, nett anzusehn.
"Ei", sprach sie, "ei, wie schön und fein!
Das muß ein trefflich Spielzeug sein.
Ich zünde mir ein Hölzlein an,
Wie's oft die Mutter hat getan."
Und Minz und Maunz, die Katzen,
Erheben ihre Tatzen.
Sie drohen mit den Pfoten:
"Der Vater hat's verboten!"
Miau! Mio! Miau! Mio!
Laß stehn! Sonst brennst Du lichterloh!"
Paulinchen hört die Katzen nicht!
Das Hölzchen brennt gar lustig hell und licht,
Das flackert lustig, knistert laut,
Grad wie ihr's auf dem Bilde schaut.
Paulinchen aber freut sich sehr
Und sprang im Zimmer hin und her.
Doch Minz und Maunz, die Katzen,
Erheben ihre Tatzen.
Sie drohen mit den Pfoten:
"Die Mutter hat's verboten!
Miau! Mio! Miau! Mio!
Wirf's weg! Sonst brennst Du lichterloh!"
Doch weh! Die Flamme faßt das Kleid,
Die Schürze brennt; es leuchtet weit.
Es brennt die Hand, es brennt das Haar,
Es brennt das ganze Kind sogar.
Und Minz und Maunz, die schreien
Gar jämmerlich zu zweien:
"Herbei! Herbei! Wer hilft geschwind?
Im Feuer steht das ganze Kind!
Miau! Mio! Miau! Mio!
Zu Hilf' ! Das Kind brennt lichterloh!"
Verbrannt ist alles ganz und gar,
Das arme Kind mit Haut und Haar;
Ein Häuflein Asche bleibt allein
Und beide Schuh', so hübsch und fein.
Und Minz und Maunz, die kleinen,
Die sitzen da und weinen:
"Miau! Mio! Miau! Mio!
Wo sind die arme Eltern? Wo?"
Und ihre Tränen fließen
Wie's Bächlein auf den Wiesen.
***
Câu chuyện về Friedrich hiểm ác
Thằng Friedrich, thằng Friedrich
Nó là thằng bé cực kỳ độc ác!
Cậu ta bắt những con ruồi trong nhà
và ngắc cánh của chúng đi.
Cậu ta đập gẩy ghế và đập chết chim,
Con mèo cũng chịu nhiều khổ sở
Hảy lắng nghe xem nó hiểm ác như thế nào:
Nó lấy roi da đánh em gái Gretchen nữa!
Tại giếng nước, một con chó to đang đứng,
uống nước bằng miệng.
Với roi da trên tay len lén đi tới
thằng Friederich cực kỳ gian ác.
Cậu ta đánh con chó, con chó la lớn lên,
Cậu ta đá và đánh nhiều hơn, nhiều hơn nữa.
Con chó cắn cậu ta ở cẳng,
khá sâu đến chảy máu.
Friederich xấu xa
hét lên và khóc lóc thảm thiết.
Con chó chạy về nhà
Miệng ngậm chiếc roi da.
Friedrich bây giờ phải đi ngủ,
Phải chịu rất nhiều đau đớn ở chân;
Ông bác sĩ ngồi kế bên
và cho cậu ta uống thuốc rất đắng.
Con chó ngồi bàn chổ của Friedrich,
và ăn một cái bánh to,
ăn luôn khúc dồi gan
và uống rượu cho đã khát.
Con roi da con chó luôn đem theo
và cẩn thận đề phòng vật ấy.
The Story of Cruel Frederick
Here is cruel Frederick, see!
A horrid wicked boy was he;
He caught the flies, poor little things,
And then tore off their tiny wings,
He kill'd the birds, and broke the chairs,
And threw the kitten down the stairs;
And Oh! far worse than all beside,
He whipp'd his Mary, till she cried.
The trough was full, and faithful Tray
Came out to drink one sultry day;
He wagg'd his tail, and wet his lip,
When cruel Fred snatch'd up a whip,
And whipp'd poor Tray till he was sore,
And kick'd and whipp'd him more and more:
At this, good Tray grew very red,
And growl'd and bit him till he bled;
Then you should only have been by,
To see how Fred did scream and cry!
So Frederick had to go to bed;
His leg was very sore and red!
The Doctor came and shook his head,
And made a very great to-do,
And gave him nasty physic too.
But good dog Tray is happy now;
He has no time to say "bow-wow!"
He seats himself in Frederick's chair
And laughs to see the nice things there:
The soup he swallows, sup by sup, -
And eats the pies and puddings up.
Heinrich Hoffmann 1844
Original title: Die Geschichte vom bösen Friedrich
Der Friederich, der Friederich
Das war ein arger Wüterich!
Er fing die Fliegen in dem Haus
Und riß ihnen die Flügel aus.
Er schlug die Stühl's und Vögel tot,
Die Katzen litten große Not.
Und höre nur, wie bös er war:
Er peitschte, ach, sein Gretchen gar!
Am Brunnen stand ein großer Hund,
Trank Wasser dort mit seinem Mund.
Da mit der Peitsch' herzu sich schlich
Der bitteböse Friederich;
Und schlug den Hund, der heult sehr,
Und trat und schlug ihn immer mehr.
Da biß der Hund ihn in das Bein,
Recht tief bis in das Blut hinein.
Der bitterböse Friederich,
Der schrie und weinte bitterlich.
Jedoch nach Hause lief der Hund
Und trug die Peitsche in dem Mund.
Ins Bett muß Friedrich nun hinein,
Litt vielen Schmerz an seinem Bein;
Und der Doktor sitzt dabei
Und gibt ihm bitt're Arznei.
Der Hund an Friedrichs Tischchen saß,
Wo er den großen Kuchen aß;
Aß auch die gute Leberwurst
und trank den Wein für seinen Durst.
Die Peitsche hat er mitgebracht
Und nimmt sie sorglich sehr in acht.
***
Câu chuyện
Những đứa bé đen như mực
Đi dạo chơi ở trước cổng
một cậu bé da đen như mực.
Mặt trời chiếu vào đầu cậu ta,
cậu ta lấy dù che.
tay cầm lá cờ.
Thằng Kaspar đi nhanh chân tới
và mang theo bánh mì xoắn;
và thằng Wilhelm cũng vậy
đem theo cái vòng của nó.
Cả ba đều la và cười to,
khi cậu bé da đen đi ngang qua,
bởi vì da cậu ta đen như mực!
với thùng mực lớn.
Ông ta nói: "Lũ con nít chúng bây, nghe tôi nói
hảy để yên cho cậu bé da đen này
không phải lỗi của cậu ta,
khi cậu ấy không trắng như tụi bây."
Tuy nhiên, đám con nít không nghe theo
chúng cười vào mặt của ông ta
và cười tồi tệ hơn trước
về cậu bé da đen tội nghiệp.
Ông Nikolas giận dữ và nổi nóng lên,
như bạn thấy ở đây trong bức ảnh này!
Ông ấy nắm những đứa bé lại,
ở cánh tay, đầu, quần áo
của Wilhelm và Ludwig,
thằng Kaspar cũng vậy, nó chống cự lại.
Ông nhúng sâu chúng vào thùng mực,
thằng Kaspar hét lên: bớ người ta, cháy!
Qua khỏi đầu trong thùng mực
ông Nikolas nhúng chúng.
Bạn thấy ở đây chúng đen như thế nào,
đen còn hơn cậu bé da đen nữa!
Cậu bé da đen đi trước trong ánh nắng,
nối đuôi theo sau là những đứa bé đen mực;
Nếu chúng không trêu chọc cậu bé kia,
thì Nikolas không làm chúng đen như vậy.
The Story of the Inky Boys
As he had often done before,
The woolly-headed black-a-moor
One nice fine summer's day went out
To see the shops and walk about;
And as he found it hot, poor fellow,
He took with him his green umbrella.
Then Edward, little noisy wag,
Ran out and laugh'd, and wav'd his flag;
And William came in jacket trim
And brought his wooden hoop with him;
And Arthur, too, snatch'd up his toys
And join'd the other naughty boys;
So, one and all set up a roar
And laugh'd and hooted more and more,
And kept on singing, - only think! -
"Oh! Blacky, you're as black as ink."
Now tall Agrippa lived close by, -
So tall, he almost touch'd the sky;
He had a mighty inkstand too,
In which a great goose-feather grew;
He call'd out in an angry tone:
"Boys, leave the black-a-moor alone!
For if he tries with all his might,
He cannot change from black to white."
But ah! they did not mind a bit
What great Agrippa said of it;
But went on laughing, as before,
And hooting at the black-a-moor.
Then great Agrippa foams with rage,
Look at him on this very page!
He seizes Arthur, seizes Ned,
Takes William by his little head;
And they may scream and kick and call.
Into the ink he dips them all;
Into the inkstand, one, two, three,
Till they are black, as black can be;
Turn over now and you shall see.
See, there they are, and there they run!
The black-a-moor enjoys the fun.
They have been made as black as crows,
Quite black all over, eyes and nose,
And legs, and arms, and heads, and toes,
And trowsers, pinafores and toys, -
The silly little inky boys!
Because they set up such a roar,
And teas'd the harmless black-a-moor.
Heinrich Hoffmann 1844
Original title: Die Geschichte von der schwarzen Buben
Es ging spazieren vor dem Tor
Ein kohlpechrabenschwarzer Mohr.
Die Sonne schien ihm aufs Gehirn,
Da nahm er seinen Sonnenschirm.
Da kam der Ludwig hergerannt
Und trug sein Fähnchen in der Hand.
Der Kaspar kam mit schnellem Schritt
Und brachte seine Brezel mit;
Und auch der Wilhelm war nicht steif
Und brachte seinen runden Reif.
Die schrie'n und lachten alle drei,
Als dort das Mohrchen ging vorbei,
Weil es so schwarz wie Tinte sei!
Da kam der große Nikolas
Mit seinem großen Tintenfaß.
Der sprach: "Ihr Kinder, hört mir zu
Und laßt den Mohren hübsch in Ruh'
Was kann denn dieser Mohr dafür,
Daß er so weiß nicht ist, wie ihr?"
Die Buben aber folgten nicht
Und lachten ihm ins Angesicht
Und lachten ärger als zuvor
Über den armen schwarzen Mohr.
Der Niklas wurde bös und wild,
Du siehst es hier auf diesem Bild!
Er packte gleich die Buben fest,
Beim Arm, beim Kopf, bei Rock und West',
Den Wilhelm und den Ludewig,
Den Kaspar auch, der wehrte sich.
Er tunkt sie in die Tinte tief,
Wie auch der Kaspar: Feuer! rief.
Bis übern Kopf ins Tintenfaß
Tunkt sie der große Nikolas.
Du siehst sie hier, wie schwarz sie sind,
Viel schwärzer als das Mohrenkind!
Der Mohr voraus im Sonnenschein,
Die Tintenbuben hinterdrein;
Und hätten sie nicht so gelacht,
Hatt' Niklas sie nicht schwarz gemacht.
***
Câu chuyện Người thợ săn thú rừng
Người thợ săn thú rừng
Mặc bộ trang phục màu xanh lá câỵ
Ông ta mang ba lô, ống sừng đựng thuốc súng và cây súng trường
và đi nhanh ra cánh đồng.
Ông ta đeo kiếng bên trên mũi
và muốn bắn chết con thỏ.
Chú thỏ ngồi trong bụi cây
và cười chế nhạo người thợ săn.
Bây giờ mặt trời đã quá gắt,
cây súng cũng đã nặng dần.
Ông ta nằm xuống trên bải cỏ xanh
Chú thỏ đều nhìn thấy tất cả
và khi người thợ săn ngủ và ngáy,
Chú thỏ len lén chạy đến chổ ông ta,
và lấy cây súng và luôn mắt kiếng
rồi nhè nhẹ rón rén bỏ đi
Mắt kiếng chú thỏ hiện đang có
bây giờ đang đeo nó bên trên mũi
và bắn loạn xạ từ cây súng.
Người thợ săn sợ hải
Ông ta chạy, nhảy tưng tưng và hét lên:
"Cứu tôi, mọi người ơi, cứu tôi!"
Người thợ săn chạy một hồi
thì đến một cái giếng sâu,
ông ta nhảy vào đó bởi vì quá khẩn cấp,
Chú thỏ tiếp tục bắn.
Vợ của người thợ săn đang ngồi bên cửa sổ
đang cầm tách cà phê và đang uống.
Chú thỏ bắn tách bể làm hai,
Người phụ nữ ấy kêu lên: Ay da! Ay da!
Trong khi ấy, ở trong bụi lá cây gần cái giếng
Có con thỏ con, con chú thỏ
Ngồi chồm hổm trên thảm cỏ xanh,
bị cà phê đổ lên lổ mũi
Chú ta la lên: "Ai đốt cháy tôi vậy?
và giữ cái muỗng ở trong tay.
The Story of the Man that went out Shooting
This is the man that shoots the hares;
This is the coat he always wears:
With game-bag, powder-horn and gun
He's going out to have some fun.He finds it hard, without a pair
Of spectacles, to shoot the hare.
The hare sits snug in leaves and grass,
And laughs to see the green man pass.
Now, as the sun grew very hot,
And he a heavy gun had got,
He lay down underneath a tree
And went to sleep, as you may see.
And, while he slept like any top,
The little hare came, hop, hop, hop,
Took gun and spectacles, and then
On her hind legs went off again.
The green man wakes and sees her place
The spectacles upon her face;
And now she's trying all she can
To shoot the sleepy, green-coat man.
He cries and screams and runs away;
The hare runs after him all day
And hears him call out everywhere:
"Help! Fire! Help! The Hare! The Hare!"
At last he stumbled at the well
Head over ears, and in he fell.
The hare stopp'd short, took aim, and hark!
Bang went the gun, - she miss'd her mark!
The poor man's wife was drinking up
Her coffee in her coffee-cup;
The gun shot cup and saucer through;
"O dear!" cried she, "what shall I do?"
There liv'd close by the cottage there
The hare's own child, the little hare;
And while she stood upon her toes,
The coffee fell and burn'd her nose.
"O dear!" she cried, with spoon in hand,
"Such fun I do not understand."
Heinrich Hoffmann 1844
Original title: Die Geschichte vom wilden Jäger
Es zog der wilde Jägermann
Sein grasgrün neues Röcklein an.
Nahm Ranzen, Pulverhorn und Flint,
Und lief hinaus ins Feld geschwind.
Er trug die Brille auf der Nas
Und wollte schießen tot der Has.
Das Häschen sitz im Blätterhaus,
Und lacht den wildern Jäger aus.
Jetzt schien die Sonne gar zu sehr,
Da ward ihm sein Gewehr zu schwer.
Er legte sich ins grüne Gras
Das Alles sah der kleine Haas.
Und als der Jäger schnarcht' und schlief,
Der Haas ganz heimlich zu ihm lief,
Und nahm die Flint' und auch die Brill
Und schlich davon ganz leis und still.
Die Brille hat das Häschen jetzt
Sich selber auf die Nas gesetzt
Und schießen will's aus dem Gewehr.
Der Jäger aber fürcht sich sehr.
Er läuft davon und springt und schreit:
"Zu Hilfe, ihr Leut, zu Hilf, ihr Leut!"
Da kommt der wilde Jägersmann
Zuletzt beim tiefen Brünnchen an,
Er springt hinein. Die Not war groß;
Es schießt der Has die Flinte los.
Der Jägers Frau am Fenster saß
Und trank aus ihrer Kaffeetass.
Die schoss das Häschen ganz entzwei,
Da rief die Frau: Oh wei! O wei!
Doch bei dem Brünnchen heimlich saß
Des Häschens Kind, der kleine Haas.
Der hockte da im grünen Gras,
Dem floss der Kaffee auf die Nas.
Er schrie: Wer hat mich da verbrannt?
Und hielt den Löffel in der Hand.
***
Câu chuyện về đứa bé hay mút ngón tay
"Konrad!" mẹ cậu ấy dặng rằng,
"Mẹ sẽ đi ra ngoài, và con ở nhà.
Hãy nghe lời ngoan ngoản đàng hoàng
cho đến khi mẹ trở về.
Và nhứt là, Konrad, hãy lắng nghe!
Đừng có mút ngón tay cái của con nữa,
Bởi nếu không, người thợ may với cái kéo của ông ta
sẽ nhanh chóng đến đây
và ngón cá ông ta cắt
Cắt nó, như cắt tờ giấy vậy."
Vừa khi mẹ cậu ta đi
Vúp, ngón tay cái đã vào trong miệng rồi.
Rầm! cánh cửa được mở toang,
và chạy vào nhanh
nhảy vào nhà một người thợ may
đến bên đứa bé mút ngón tay.
Khổ thay! bây giờ tiếng clip-clap
với cái kéo cắt ngón tay cái,
với cây kéo to và bén!
Ay da! thằng Konrad khóc la rất nhiều.
Khi mẹ cậu ta về đến nhà,
Konrad trông rất buồn.
Cậu ta đứng đó, tay không có hai ngón cái,
Cả hai đều đã biến mất.
The Story of Little Suck-a-Thumb
One day Mamma said: "Conrad dear,
I must go out and leave you here.
But mind you, Conrad, what I say,
Don't suck your thumb while I'm away.
The great tall tailor always comes
To little boys that suck their thumbs,
And ere they dream what he's about,
He takes his great sharp scissors out,
And cuts their thumbs clean off, - and then,
You know, they never grow again."
Mamma had scarcely turn'd her back,
The thumb was in, Alack! Alack!
The door flew open, in he ran,
The great, long, red-legg'd scissor-man.
Oh! children, see! the tailor's come
And caught out little Suck-a-Thumb.
Snip! Snap! Snip! the scissors go;
And Conrad cries out - Oh! Oh! Oh!
Snip! Snap! Snip! They go so fast
That both his thumbs are off at last.
Mamma comes home; there Conrad stands,
And looks quite sad, and shows his hands, -
"Ah!" said Mamma, "I knew he'd come
To naughty little Suck-a-Thumb."
Heinrich Hoffmann 1844
Original title:
Die Geschichte vom Daumenlutscher
"Konrad!" sprach die Frau Mama,
"Ich geh aus und du bleibt da.
Sei hübsch ordentlich und fromm.
Bis nach Hause ich wieder komm
Und vor allem, Konrad, hör!
Lutsche nicht am Daumen mehr,
Denn der Schneider mit der Scher
Kommt sonst ganz geschwind daher,
Und die Daumen schneidet er
Ab, als ob Papier es wär."
Fort geht nun die Mutter und
Wupp, den Daumen in den Mund.
Bauz! Da geht die Türe auf,
Und herein in schnellem Lauf
Springt der Schneider in die Stub
Zu dem Daumen-Lutscher-Bub.
Weh! Jetzt geht es klipp und klapp
Mit der Scher die Daumen ab,
Mit der großen scharfe Scher!
Hei! Da schreit der Konrad sehr.
Als die Mutter kommt nach Haus,
Sieht der Konrad traurig aus.
Ohne Daumen steht er dort,
Die sind alle beide fort.
***
The Story of Flying Robert
When the rain comes tumbling down,
In the country or the town,
All good little girls and boys
Stay at home and mind their toys.
Roberty thought, - "No, when it pours,
It is better out of doors."
Rain it did, and in a minute
Bob was in it.
Here you see him, silly fellow,
Underneath his red umbrella.
What a wind! Oh! how it whistles
Through the trees and flow'rs and thistles!
It has caught his red umbrella;
Now look at him, silly fellow.
Up he flies
To the skies.
No one heard his screams and cries.
Through the clouds the rude wind bore him,
And his hat flew on before him.
Soon they got to such a height
They were nearly out of sight!
And the hat went up so high
That it really touched the sky.
No one ever yet could tell
Where they stopp'd, or where they fell:
Only, this one thing is plain:
Bob was never seen again!
Heinrich Hoffmann 1844
Câu chuyện về "Robert bay"
Khi trời mưa ào ào đổ xuống,
Khi cơn bão thổi nhanh qua cánh đồng,
thì các em nhỏ trai lẫn gái
đều ở nhà, trong phòng của chúng.
Robert thì nghĩ: "Không!
Bên ngoài nhứt định phải tuyệt lắm!"
và cậu ta đi dẫm trên cánh đồng
với cây dù cầm trong tay.
Ui, cơn bão thổi vù vù,
làm cho cây cũng oằn xuống!
Nhìn kìa! gió chụp lấy cây dù,
và Robert bay nhanh
trong không khí thật cao, thật xa,
Không ai nghe tiếng cậu ta la.
Cậu ta đã bay đến tận mây,
và chiếc nón cũng bay theo.
Dù và Robert bay ở đó
Liên tục qua các đám mây.
và chiếc nón bay xa hơn phía trước,
đụng đến bầu trời,
nơi mà gió mang họ đến,
Vâng, không ai biết họ hiện bay về đâu.
Original title: Die Geschichte vom fliegenden Robert
Wenn der Regen niederbraust,
Wenn der Sturm das Feld durchsaust,
Bleiben Mädchen oder Buben
Hübsch daheim in Ihren Stuben.
Robert aber dachte: Nein!
Das muss draußen herrlich sein!
Und im Felde patschet er
Mit dem Regenschirm umher.
Hui wie pfeift der Sturm und keucht,
Dass der Baum sich niederbeugt!
Seht! Den Schirm erfasst der Wind,
Und der Robert fliegt geschwind
Durch die Luft so hoch, so weit,
Niemand hört ihn, wenn er schreit.
An die Wolken stößt er schon,
Und der Hut fliegt auch davon.
Schirm und Robert fliegen dort
Durch die Wolken immerfort.
Und der Hut fliegt weit voran,
Stößt zuletzt am Himmel an.
Wo der Wind sie hingetragen,
Ja, das weiß kein Mensch zu sagen.
Câu chuyện về "Bồn chồn/Nhấp nhổm" Philipp
"Hôm nay Philipp có yên không
khi ngồi vào bàn ăn?"
Hỏi như vậy với một giọng nghiêm túc
Người cha nhìn con trai của mình,
Và người mẹ nhìn lặng lẽ
lên khắp nơi ở trên bàn.
Nhưng Philipp không nghe,
Lời cha của cậu nói,
Cậu ta giả vờ
và đong đưa,
chân gỏ lộp cộp
và bồn chồn không yên
trên chiếc ghế đưa qua đưa lại.
"Philipp, tôi không hài lòng!"
Nhìn xem kìa, các em hãy nhìn kìa,
Chuyện của Philipp sẽ tiếp tục như thế nào!
Trong hình trên.
Nhìn xem! cậu ta đong đưa quá mạnh,
Cho đến lúc chiếc ghế ngã ra phía sau,
Không còn gì có thể giữ cậu ta lại.
Cậu ta nắm lấy chiếc khăn bàn, la lên.
Nhưng có giúp ích được gì? Đồng thời lúc ấy
Dĩa rớt xuống đất, chai và bánh mì.
Người cha khốn khổ,
và người mẹ với ánh mắt âm thầm
nhìn khắp nơi ở trên bàn.
Lúc đó thì Philipp hoàn toàn núp dưới gầm bàn,
Và toàn bộ bàn ăn đều tung tóe
Tất cả những gì người cha muốn ăn,
đều lăn hết cả xuống đất,
Canh, bánh mì và tất cả nhưng miếng cắn dỡ,
Tất cả mọi thứ đều bị lôi xuống đất;
Tô canh bể làm hai,
Và cha mẹ cậu ta thì đứng đó.
Cả hai đều thực sự rất tức giận,
Vì họ không còn một thứ gì để ăn.
***
The Story of Fidgety Philip
Let me see if Philip can
Be a little gentleman;
Let me see, if he is able
To sit still for once at table:
Thus Papa bade Phil behave;
And Mamma look'd very grave,
But fidgety Phil,
He won't sit still;
He wriggles and giggles,
And then, I declare,
Swings backwards and forwards
And tilts up his chair,
Just like any rocking horse; -
"Philip! I am getting cross!"
See the naughty restless child
Growing still more rude and wild,
Till his chair falls over quite.
Philip screams with all his might;
Catches at the cloth, but then
That makes matters worse again.
Down upon the ground they fall,
Glasses, plates, knives, forks and all.
How Mamma did fret and frown
When she saw them tumbling down!
And Papa made such a face!
Philip is in sad disgrace.
Where is Philip, where is he?
Fairly cover'd up you see!
Cloth and all are lying on him;
He has pull'd down all upon him.
What a terrible to-do!
Dishes, glasses, snapt in two!
Here a knife, and there a fork!
Philip, this is cruel work.
Table all so bare, and ah!
Poor Papa, and poor Mamma
Look quite cross, and wonder how
They shall have their dinner now.
Heinrich Hoffmann 1844
Original title: Die Geschichte vom Zappel-Philipp
"Ob der Philipp heute still
Wohl bei Tische sitzen will?"
Also sprach in ernstem Ton
Der Papa zu seinem Sohn,
Und die Mutter blickte stumm
Auf dem ganzen Tisch herum.
Doch der Philipp hörte nicht,
Was zu ihm der Vater spricht.
Er gaukelt
Und schaukelt,
Er trappelt
und zappelt
Auf dem Stuhle hin und her.
"Philipp, das missfällt mir sehr!"
Seht, ihr lieben Kinder, seht,
Wie's dem Philipp weiter geht!
Oben steht es auf dem Bild.
Seht! Er schaukelt gar zu wild,
Bis der Stuhl nach hinten fällt,
Da ist nichts mehr, was ihn hält.
Nach dem Tischtuch greift er, schreit.
Doch was hilft's? Zu gleicher Zeit
Fällen Teller, Flasch und Brot.
Vater ist in großer Not,
Und die Mutter blicket stumm
Auf dem ganzen Tisch herum.
Nun ist der Philipp ganz versteckt,
Und der Tisch ist abgedeckt,
Was der Vater essen wollt,
Unten auf der Erde rollt;
Suppe, Brot und alle Bissen,
Alles ist herabgerissen;
Suppenschüssel ist entzwei,
Und die Eltern stehn dabei.
Beide sich gar zornig sehr,
Haben nichts zu essen mehr.
Heinrich Hoffmann sanh ngày 13.06.1809 tại Frankfurt am Main/Germany, là con trai duy nhứt của Marianne Caroline Lausberg (1776 -✟11.05.1810) và kiến trúc sư, kỹ sư chuyên về thiết kế thành phố, công chánh cầu đường Philipp Jacob Hoffmann (1778-1834). Mẹ Heinrich mất lúc ông vừa 1 tuổi. 10.10.1811 cha Heinrich cưới em gái của vợ (tức Dì ruột của Heinrich) Antoinette Lausberg (1784-1863).
Heinrich học đại học y khoa tại Heidelberg và Halle và sau đó học ở Paris. ra trường với bằng tiến sĩ, bác sĩ thần kinh vào năm 1835. Phòng mạch của ông mở tại Frankfurt/Sachsenhausen chuyên chữa bịnh ADHS (attention deficit hyperactivity disorder), hyperactivity ở trẻ em là những đứa trẻ bất cứ lúc nào cũng đứng ngồi không yên, thoái mái; và anorexia, bịnh biếng ăn.
5.3.1840 H.H. cưới vợ Therese Donner (1818-1911), con gái thương gia, người cha của bà là Christoph Friedrich Donner hùn với gia đình nhà vợ, đứng ra làm chủ hảng sản xuất nón Zinn & Donner.
Heinrich Hoffmann có 3 người con, 2 trai và 1 gái.
8.5.1841 con trai đầu lòng Carl Philipp (
✟11.5.1868). Vào mùa giáng sinh, lúc Philipp được 3 tuổi; Heinrich muốn mua sách truyện hình để làm quà cho con, tìm hoài mà vẫn không ưng ý cuốn nào, ông tự mua cuốn tập nhỏ và bắt đầu tự hình dung, đặt chuyện, vẽ hình để diễn đạt cho câu chuyện. Người con này còn độc thân, về sau đi thám hiểm và mất tại Lima; thủ đô của Peru, nam Mỹ lúc mới 27 tuổi bởi bịnh sốt vàng (yellow fever) lúc vừa có sinh nhựt được vài ngày. Gia đình ở Đức ăn mừng ngày sinh nhựt xa của anh, sau 4 tuần mới biết được tin dử.
Cuốn tập nhỏ truyện tranh vẽ tay nguyên thủy này của Heinrich Hoffmann vẫn còn tồn tại và hiện giờ đang ở trong viện bảo tàng quốc gia của Đức tại Nürnberg.
Đứa con gái thứ nhì Lina, Antonie Caroline (11.12.1844-28.4.1914). 1866, cô lấy chồng là Luật sư Carl Joseph Hessenberg (1840-1878).
và con út của H.H., Eduard (21.1.1848-21.8.1920) sau là tiến sĩ ngành Luật, làm chức rất cao trong tòa án quốc gia, sống suốt đời độc thân.
Heirich Hoffmann mất vào ngày 20.9.1894 vì bị tai biến não, thọ 85 tuổi.
Tất cả người qua đời của hai họ Hoffmann và Donner chôn chung một vùng đất trong nghĩa trang chính của thành phố Frankfurt.
Vài tác phẩm:
- Tập Thơ, 1842
- Người chế ngự mặt trăng - Die Mondzügler. Hài kịch, 1843.
- Cái kiếng rú - Der Heulerspiegel. Bản phát hành từ cuốn nhật ký của ông Heulalius von Heulenburg, 1849.
- Trên trời và dưới đất. Chuyện nồng nhiệt và khôi hài từ thế giới của trẻ em - Im Himmel und auf der Erde. Herzliches und Scherzliches aus der Kinderwelt, 1857.
- Quan sát và kinh nghiệm về bịnh rối loạn tâm thần và động kinh trong nhà thương điên của thành phố Frankfurt và vùng nghỉ Salzloch - Beobachtungen und Erfahrungen über Seelenstörungen und Epilepsie in der Irrenanstalt zu Frankfurt, Salzloch 1851-1860.
- Cuốn sách những bài hát dành cho các nhà khoa học về thiên nhiên và các bác sĩ - Ein Liederbuch für Naturforscher und Ärzte, 1867.
- Hoàng tử Grünewald và Perlenfein (Ngọc trai đẹp) với con lừa nhỏ thân yêu - Prinz Grünewald und Perlenfein mit ihrem lieben Eselein 1871.
- Trên con đường thanh thản - Auf heiteren Pfaden. Tập thơ sưu tầm, 1873.
Một số hình vẽ phác thảo nguyên thủy của bác sĩ Heinrich Hoffmann:
"Das Bübchen wollt den Küchen
Ein wenig nur versuchen.
Es steigt hinauf, und fällt hinein!
Das wird ein guter Küchen sein!"
"Cậu bé muốn ăn bánh
thử một chút xíu thôi
Cậu ta trèo lên và lọt vô...
Đây sẽ là cái bánh rất ngon!"
"Ein Chines ist gar nicht bös,
daß er fährt in seiner Chaise"
"Thằng ba tàu không gian ác đâu,
vì nó chạy trên chiếc xe ngựa kéo"
"Dieser hier ist auch nicht bös,
weil er hat die Leberklös."
"Thằng tàu này cũng không gian ác,
vì nó có thịt vo gan"
1871
Prinz Grünewald und Perlenfein mit ihrem lieben Eselein
Hoàng tử Grünewald và Perlenfein (Ngọc trai đẹp) với con lừa nhỏ thân yêu
Prince Grünewald and Perlenfein with their dear little Donkey
Xem thêm
The Brave Tin Soldier
Max and Moritz in seven tricks - by Wilhelm Busch
Max and Moritz in seven tricks - by Wilhelm Busch -> Xem Tiếp chuyện 3 đến 7
The Little Match-Seller/The little Match Girl/Cô bé bán diêm by Hans Christian Andersen
The story of Augustus who would not have any soup
go there for -----> more stories of Dr. H. H.
"Man bites Dog" News
How to get along with a limited vocabulary
The potato peeler story
How to talk to a computer
The little Girl and the Wolf